Thứ Năm, 27 tháng 10, 2011

Lương phải đủ tái tạo sức lao động

Tiền phong Online ngày 27/10/2011 đăng bài với đầu đề như trên của tác giả Hà Nhân ghi lại cuộc phỏng vấn của phóng viên Tiền phong với bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội. Tôi xin lược trích bài phỏng vấn trên và xin phép có đôi lời bình luận thêm ở một số điểm -- NMC

PV: Khảo sát của Viện Công nhân - Công đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cho thấy, mức lương bình quân của người lao động chưa đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng để tái sản xuất sức lao động. Bà nghĩ sao? 

Bà Trương Thị Mai: Theo tôi, tiền lương phải tính theo đúng giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu này, Bộ luật Lao động sửa đổi tới đây phải có một số điều chỉnh. Ví như, tiền lương phải là sự thỏa thuận giữa người  sử dụng lao động và người lao động.

Tuy nhiên, trong thực tế, đảm bảo chính sách tiền lương công bằng, hợp lý không đơn giản vì người lao động bao giờ cũng yếu thế hơn trong quan hệ với người sử dụng. 

Vậy làm sao để tiền lương người chủ sử dụng lao động đưa ra là đúng giá cả sức lao động? Ở đây cần có vai trò của nhà nước, phải cung cấp thông tin cho người lao động biết tiền lương trong vùng thế nào. Từ đó, người lao động có cơ sở trước khi ký hợp đồng. Nhà nước cũng phải có cơ chế hỗ trợ thỏa ước lao động tập thể trong quá trình thương lượng với chủ sử dụng lao động về tiền lương.  
 
 NMC bình luận: trong bài "Các chủ thể trong quan hệ lao động" tôi có đề cập đến khái niệm "sức mạnh thương lượng" (negotiating power), trong đó nhấn mạnh "bên nào có sức mạnh đàm phán (thương lượng) mạnh hơn thì thường sẽ hưởng lợi nhiều hơn từ kết quả đàm phán (thương lượng). Bởi vậy, khi đã xác định là hiện nay người lao động còn ở vị trí yếu thế hơn người sử dụng lao động thì sự hỗ trợ của nhà nước vào quá trình thương lượng là cần thiết, nhằm tạo thế cân bằng hơn trong thương lượng giữa người lao động và người sử dụng lao động

Ngoài ra, Nhà nước định kỳ công bố tiền lương tối thiểu, đây được xem như mức sống tối thiểu để người lao động, chủ sử dụng lao động căn cứ để xem xét, thỏa thuận về tiền lương. 

Tuy nhiên, không để người sử dụng lao động lạm dụng mức lương tối thiểu, coi đó là lương tham chiếu để quyết định. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài coi lương tối thiểu là lương tham chiếu. Họ chỉ trả lương cao hơn lương tối thiểu một chút, dẫn đến sự không công bằng đối với người lao động

NMC bình luận: trong bài "Bằng nhau nhưng liệu có bình đẳng" tôi đã đề cập đến vấn đề này, trong đó phân tích rất kỹ là giả sử Chính phủ điều chỉnh tăng lương tối thiểu lên 100 ngàn đồng một tháng thì cán bộ, công viên chức và các đối tượng hưởng theo thang bảng lương được tăng thêm một khoản bằng 100 ngàn đồng nhân với hệ số lương, còn lương của người công nhân ở các doanh nghiệp tư nhân và FDI có thể chỉ được tăng thêm 100 ngàn hoặc trên 100 ngàn đồng một chút do các doanh nghiệp này không bị ràng buộc bởi hệ số. Đây là điều rất đáng lưu tâm khi thiết kế chính sách tiền lương quốc gia. 

PV: Vậy chúng ta sẽ xác định giá cả sức lao động trên cơ sở nào?

Bà Trương Thị Mai: Đây là vai trò của nhà nước. Trong dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi đã đưa ra những quy định: Nhà nước phối hợp với tổ chức đại diện cho người lao động hằng tháng, 3 tháng, 6 tháng cung cấp thông tin công khai, minh bạch về mức lương

Ví dụ, vùng Đông Nam bộ mức lương cho ngành dệt may đang ở mức 4 - 5 triệu đồng/tháng là hợp lý. Đây được xem như lương mẫu, trên cơ sở đó người lao động biết rằng mức lương người chủ đang trả cho mình hợp lý chưa, đúng với thị trường lao động ở khu vực đó hay chưa? Tôi nghĩ những việc này hiện chưa làm nhưng sắp tới nhà nước và tổ chức đại diện cho người lao động phải cố gắng làm.

Từ đó, người lao động tại từng doanh nghiệp mới có cơ sở để đưa ra các thỏa thuận, thương lượng, ký kết hợp đồng lao động. Hiện nay, người lao động không biết dựa trên căn cứ gì, chỉ thấy lương đáp ứng được phần nào đó yêu cầu của mình là ký hợp đồng.

NMC bình luận: Tôi rất hoan nghênh ý này. Tôi cũng đã có ý định viết một bài về vấn đề này. Sơ qua kinh nghiệm một số nước xử lý vấn đề này: Ở Singapore thì Hội đồng ba bên về Tiền lương quốc gia họ sẽ đưa ra mức tham chiếu này để các bên làm căn cứ thỏa thuận. Ở Trung quốc thì nhà nước đưa ra ba hệ thống thông tin về tiền lương để các bên lấy làm căn cứ tham khảo để xác định tiền lương ở doanh nghiệp gồm: "Hệ thống hướng dẫn tiền lương", "Hệ thống Hướng dẫn tiền lương của thị trường lao động" và "Hệ thống hướng dẫn thông tin về Chi phí lao động theo ngành". Còn ở Hàn quốc thì tổ chức công đoàn toàn quốc hàng năm phát hành những cuốn tài liệu hướng dẫn công đoàn cấp cơ sở những mức lương tham chiếu đối với từng ngành, nghề và vùng để công đoàn cơ sỏ lấy làm căn cứ tham khảo khi thương lượng tiền lương với chủ sử dụng lao động. Tôi thấy cả 3 mô hình này đều có thể áp dụng ở Việt Nam.

PV: Làm thế nào để người sử dụng lao động chấp nhận mức lương mẫu?

Bà Trương Thị Mai: Trong các mối quan hệ, nếu bên nào cũng muốn tăng lợi ích của mình thì rất khó. Do vậy, phải có vai trò của bên thứ ba, đó là nhà nước và tổ chức đại diện cho người lao động. Thông tin về lương mẫu không mang tính chất áp đặt mà để nghiên cứu, định hướng.

Người lao động và chủ sử dụng biết khu vực Đông Nam bộ tiền lương cho ngành dệt may có thể ở mức đó. Từ đó, hai bên ký kết mức lương, có thể thấp hoặc cao hơn nhưng chắc chắn sẽ không quá cách biệt như hiện nay.

NMC bình luận: Khi nói tới vai trò của nhà nước đối với quan hệ lao động, ta thường quá chú ý tới vai trò "can thiệp cứng" tức các công cụ quản lý như thanh tra, kiểm tra và mang tính áp chế để thực thi những yêu cầu mang tính chất "quyền" mà không để ý đến phương thức "can thiệp mềm" của nhà nước vào quan hệ lao động để các tự nguyện tương tác quyết định các vấn đề về "lợi ích". Bởi vậy, tôi hoàn toàn ủng hộ ý tưởng là cần sớm hình thành thiết chế hỗ trợ này để thực thi việc "can thiệp mềm" của nhà nước vào quan hệ lao động.

PV: Quy định mức lương cứng cho từng khu vực có hợp lý khi lạm phát tăng cao?

Bà Trương Thị Mai: Trước mắt, tình hình kinh tế chưa ổn định thì công bố lương theo vùng là hợp lý. Bởi từng vùng mức sống còn chênh lệch nhau. Trong Bộ luật Lao động sửa đổi lần này cũng có quy định việc nhà nước sẽ công bố lương tối thiểu vùng và chia ra khoảng 2 - 3 vùng, chứ không để nhiều như hiện nay. 

Ngoài ra, chúng tôi đang khuyến khích công bố lương tối thiểu ngành. Vì thực tế, đa số những ngành yếu thế, sử dụng nhiều lao động như da giầy, dệt may trả lương thấp mới cần quy định lương tối thiểu. Còn các ngành sử dụng lao động công nghệ kỹ thuật cao, họ trả lương cao nên không cần lương tối thiểu của Chính phủ.

Trong tương lai, Nhà nước chỉ nên công bố lương tối thiểu để bảo vệ những ngành yếu thế. Các khu vực khác nên để vận hành theo cơ chế thị trường chứ không nên áp đặt một mức lương. 

NMC bình luận: kết nối hai phần bình luận trên, có thể thấy là nếu chúng ta hình thành được cơ chế "hướng dẫn tiền lương" như ở một số nước khác, cộng với hoạt động của thiết chế hỗ trợ với tư cách là bên thứ ba vào thương lượng của hai bên thì khi đó vai trò của lương tối thiểu sẽ "nhẹ" đi rất nhiều chứ không còn là cái thứ để người sử dụng lao động cứ cột chặt vào đó như hiện nay. Khi đó tiền lương chủ yếu sẽ được xác định thông qua con đường thương lượng. Đây là điều tôi đã đề cập khá kỹ trong bài "Đình công - có phải chỉ tại lương tối thiểu" trong đó nhấn mạnh hai kịch bản xác định tiền lương: một là dựa vào lương tối thiểu, hai là dựa vào thương lượng, trong đó kịch bản dựa vào lương tối thiểu là kịch bản tồi và kịch bản dựa vào thương lượng là kịch bản tiến bộ.

Xin có đôi lời bình luận thêm vào bài trả lời phỏng vấn. Xin cám ơn bà Trương Thị Mai và phóng viên Hà Nhân.- NMC

2 nhận xét: