Độ này thấy
dân chúng nói nhiều về các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhưng mình muốn
các bạn lưu ý là không phải cứ là hiệp định thương mại tự do thì là như nhau. Các
FTA tuy giống nhau về tên gọi nhưng lại có thể rất khác nhau về nội dung. Cũng
giống như ngoài đường có hai chiếc xe ô tô chạy, một cái là Kia Morning và một
cái là Roll Roys Phantom thì người ta vẫn gọi cả hai là ô tô, nhưng cái này có giá
trị bằng mấy chục cái kia.
Do các FTA
khác nhau nên mức độ tác động của các FTA lên kinh tế của một quốc gia là khác
nhau. Một quốc gia có thể tham gia đến hơn chục FTA rồi nhưng có thể vẫn không
thấy “xin-nhê” gì, nhưng ngược lại chỉ cần tham gia một FTA “khủng” thôi thì những
tác động có thể sẽ cảm thấy rõ rệt.
Vậy cái gì
làm nên sự khác biệt giữa các FTA khác nhau? Theo tôi, để đánh giá một FTA cần
nhìn vào 3 yếu tố sau:
Thứ nhất là
“độ rộng” của FTA.
Ở đây tôi
không nói đến độ bao phủ về mặt địa lý, nghĩa là nó bao gồm bao nhiêu quốc gia,
bao nhiêu dân số, rồi GDP của khối chiếm bao nhiêu phần trăm GDP thế giới,..vì
theo tôi một FTA dù có “lớn” về diện tích địa lý mà nội dung không thực chất
thì độ lớn đó cũng chỉ nói cho nó “oai” thôi chứ không có giá trị lắm về mặt
thương mại.
Độ bao phủ
tôi nói tới ở đây là các lĩnh vực mà một FTA bao phủ. Nếu như những thế hệ FTA
đầu tiên người ta chỉ chú trọng đến thương mại hàng hóa, rồi thương mại dịch vụ,
đầu tư, rồi mở rộng ra sở hữu trí tuệ thì ngày nay FTA thế hệ mới đã mở rộng ra
các lĩnh vực được coi là phi truyền thống như lao động, môi trường, doanh nghiệp
nhà nước, minh bạch và chống tham nhũng,..
Đặc biệt là
nếu chỉ tính riêng nội dung “truyền thống” là mở cửa thị trường thôi thì cũng
thấy có sự khác nhau lớn giữa các FTA. Có một số FTA mà các nước thành viên loại
trừ mở cửa thị trường hoặc chỉ mở cửa “lấy lệ” đối với những ngành kinh tế mà
nước đó cho là nhạy cảm đối với quốc gia đó. Ví dụ như có những nước bao nhiêu
năm nay hội nhập quốc tế nhưng chưa hề mở cửa thị trường lúa gạo, hay có những
nước bảo hộ, hạn chế mở cửa ngành công nghiệp ô tô chẳng hạn. Trong khi có những
FTA có độ bao phủ hầu như toàn bộ các ngành cùa nền kinh tế.
Thứ hai là “độ
sâu” của FTA
“Độ sâu” ở
đây là tôi nói tới mức độ cam kết mở cửa thị trường. Có những FTA chỉ mở cửa “có
chừng có mực”, có những FTA mở cửa thị trường đến mức là thuế nhập khẩu về 0% hết.
Có những FTA có lộ trình giảm thuế khá dài, kéo dài tới cả chục năm, nhưng có
những FTA mà phần lớn thuế nhập khẩu về 0% tức thì ngay khi FTA có hiệu lực đối
với đại đa số sản phẩm.
Thứ ba là “độ
chặt” của FTA.
Cái này là
cái mà người ta hay bỏ qua khi so sánh nhất FTA, đó là khả năng thực thi
(enforceable). Có những FTA mà cơ chế thực thi rất lỏng lẻo, dẫn đến kết quả là
nếu một quốc gia không thực thi cam kết thì…cũng chằng sao, hoặc “nhắc nhở” qua
loa cho xong. Có những FTA thì cơ chế thực thi cực kỳ chặt chẽ, với cơ chế giải quyết tranh chấp ngặt nghèo
khiến cho một nước khó trốn được trách nhiệm thực thi cam kết.
Nếu để ý
thì thấy nếu những FTA nào mà mang nặng tính “ngoại giao” hảo hảo, lấy đồng thuận
là chính thì thì cả 3 tiêu chí là độ rộng,
độ sâu và độ chặt đều ở mức lỏng lẻo. Đối với những FTA loại này, dù một quốc
gia có thể tham gia vào hàng chục FTA thì những FTA này cũng ít có tác động đến
nền kinh tế của quốc gia đó. Thậm chí khéo người dân và doanh nghiệp cũng không
hề biết là nước mình đang tham gia vào một FTA.
Còn những
FTA nào lấy nguyên tắc sòng phẳng của thị trường và mở rộng tự do thương mại làm
nguyên tắc chính thì cả 3 yếu tố đều ở mức cao. Đối với FTA này, mức độ tác động
đến nền kinh tế của một quốc gia là đáng kể, thậm chí có thể ở mức rất đáng kể.
Thế đấy, nên nhớ các FTA là khác nhau, và bởi vậy tác động của nó đối với một nền kinh tế là khác nhau.
Mạnh Cường