Cách đây đúng 1 năm, ngày 5/10/2015, tại thành phố Atlanta, Hoa Kỳ, 12
quốc gia đã tuyên bố kết thúc đàm phán thành công Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương, gọi tắt là TPP, sau một chặng đường kéo dài hơn 5 năm với khoảng
trên 25 phiên đàm phán đa phương và hội nghị bộ trưởng, cùng với vài chục cuộc
đàm phán và gặp gỡ cấp cao song phương con thoi giữa các nước. Sau đó đúng 3
tháng, vào ngày 4/2/2016 tại New Zealand, bản Hiệp định đã được 12 nước chính
thức ký.
Câu hỏi mà nhiều người hiện nay quan tâm là vậy thì bao giờ TPP sẽ có hiệu
lực?
Xin nói ngay là sẽ không có một câu trả lời ngắn, kiểu như là đến ngày- tháng-năm
nào đó thì TPP sẽ có hiệu lực, mà câu trả lời sẽ là các điều kiện để TPP có hiệu
lực là gì và khi nào hội tụ đủ các điều kiện đó thì TPP sẽ có hiệu lực
Theo điều 30.5, Chương 30 của TPP thì thời điểm có hiệu lực của TPP có
thể xảy ra theo 1 trong 3 kịch bản sau:
Kịch bản 1: TPP có hiệu
lực trước ngày 4/2/2018 (tức tính đến thời điểm 2 năm sau ngày ký). Theo kịch bản này thì nếu Quốc hội của cả 12
nước tham gia ký kết TPP đều phê chuẩn Hiệp định trước ngày 4/2/2018 thì tính từ ngày
mà nước thứ 12 thông báo cho New Zealand
(là nước được phân công đóng vai trò lưu chiểu Hiệp định) về việc nước
đó đã hoàn thành thủ tục pháp lý phê chuẩn trong nước thì lấy mốc là
ngày thông báo đó cộng với 60 ngày thì sẽ ra ngày TPP có hiệu lực.
Ví dụ: Quốc hội 11 nước đã phê chuẩn TPP, chỉ còn Chi lê chưa phê chuẩn.
Đến ngày 10/7/2017 Chi lê thông báo cho New Zealand rằng Quốc hội Chi lê đã phê
chuẩn xong TPP thì ta sẽ cộng thêm 60 ngày, tức đến ngày 10/9/2017 thì TPP sẽ
có hiệu lực.
Kịch bản 2: Nếu đến
trước ngày 4/2/2018 mà kịch bản 1 không xảy ra, tức vẫn chưa đủ 12 nước hoàn
thành thủ tục phê chuẩn trong nước thì đến ngày đó (tức 4/2/2018) chỉ cần có ít
nhất 6 nước TPP mà GDP cộng gộp của những
nước này chiếm ít nhất 85% GDP của toàn bộ khối 12 nước (tính theo số liệu công
bố của IMF năm 2013) thì Hiệp định cũng sẽ có hiệu lực đối với những nước này. Thời điểm có hiệu
lực cũng theo công thức cộng thêm 60 ngày, tức đến ngày 4/4/2018 sẽ chính thức
có hiệu lực đối với các quốc gia đã phê
chuẩn.
Kịch bản 3: Nếu đến
4/2/2018 mà điều kiện ở kịch bản 2 vẫn chưa xảy ra thì TPP sẽ bị “treo” cho đến
khi điều kiện đó xảy ra ở một thời điểm nào đó sau ngày 4/2/2018. Ví dụ: đến
sau ngày 4/2/2018 đã có 6 nước phê chuẩn TPP, nhưng GDP của 6 nước ngày cộng lại
vẫn chưa đạt được 85% GDP của toàn khối 12 nước; đến ngày 20/9/2019 thì thêm một
nước thông báo cho New Zealand rằng Quốc hội nước đó đã phê chuẩn TPP và khi đó
nếu tính thêm cả GDP của nước đó thì GDP của những nước phê chuẩn đã vượt qua mốc
85% GDP của toàn khối thì khi đó TPP sẽ có hiệu lực đối với những nước đã
phê chuẩn sau 60 ngày kể từ ngày nước cuối cùng thông báo, tức vào ngày
20/11/2019. Ở thời điểm đó thì TPP chưa có hiệu lực đối với những nước chưa phê
chuẩn.
Với kịch bản 1 thì khi có hiệu lực thì sẽ là TPP-12, còn nếu xảy ra kịch bản 2 hay 3 thì có thể sẽ chỉ có TPP-6, hay TPP-7,…(tức khi đó mới chỉ có
6 hay 7 nước tham gia)
Trên đây là sự diễn giải Điều 30.5 của Hiệp định TPP. Tuy nhiên, nếu chỉ
đọc lời văn của điều này trong Hiệp định thì vẫn chưa rõ hết, mà cần hiểu thêm
năm điểm sau:
Điều thứ nhất mọi người
nên biết là về công thức “6 nước và 85% GDP” trong thực tế là như thế nào. Trong
trường hợp xảy ra Phương án 2 và Phương án 3 thì hết sức lưu ý đến điều kiện là
những nước phê chuẩn đó phải có GDP cộng gộp bằng ít nhất 85% GDP của toàn bộ
12 quốc gia TPP. Cần biết rằng tính theo số liệu 2013 của IMF thì GDP của Hoa kỳ
chiếm trên 61% và GDP của Nhật chiếm khoảng
17% GDP của toàn khối 12 nước TPP. Vậy nên, nếu Hoa kỳ không phê chuẩn thì dù
11 nước còn lại, kể cả Nhật bản, có phê chuẩn thì tổng GDP cộng lại của 11 nước
này (trừ Hoa kỳ) cũng chỉ chiếm 39% của toàn khối TPP, thấp hơn rất nhiều tỷ lệ
tối thiểu 85% theo quy định của Hiệp định nên TPP vẫn không có hiệu lực. Tương
tự, nếu Nhật bản không phê chuẩn thì dù 11 nước còn lại, bao gồm cả Hoa Kỳ có
phê chuẩn thì tổng GDP cộng lại của 11
nước này (trừ Nhật) cũng mới chỉ đủ 83% GDP của toàn khối 12 nước.
Vậy nên có thể diễn giải ra rõ hơn là nếu xảy ra Kịch bản 2 và Kịch bản 3 thì sẽ là kịch bản khi mà Hoa kỳ VÀ Nhật bản VÀ ít nhất 4 nước khác phê
chuẩn.
Ngoài ra còn một kịch bản có thể chỉ tồn tại trên lý thuyết mà khó có
thể xảy ra trong thực tế, đó là nếu cả 3 nước Canada, Úc và Mehico (đứng thứ 3,
thứ 4 và thứ 5 về độ lớn GDP trong số 12 nước) cùng rủ nhau không phê chuẩn thì
TPP cũng sẽ không thể có hiệu lực do tổng GDP của 3 nước này cộng lại bằng
16,5% tổng GDP của toàn khối. Như vậy, nếu Hoa kỳ cùng Nhật bản và 7 nước kia
phê chuẩn mà 3 nước này “rủ nhau” không phê chuẩn thì TPP sẽ không có hiệu lực.
Tất nhiên, như trên đã nói, khả năng này chỉ tồn tại trên lý thuyết (để cho có
vẻ là TPP có tính đến quyền của tất cả các nước) chứ khó có khả năng xảy ra
trong thực tế. Bởi vậy, người ta hầu như không nói đến khả năng này.
Điều thứ hai mọi người nên biết là trong trường hợp xảy ra Kịch bản 2
và Kịch bản 3, tức có một nhóm các nước phê chuẩn trước và TPP sẽ chỉ có hiệu
lực đối với nhóm những nước này. Khi đó các nước TPP phê chuẩn sau sẽ nghiễm nhiên (bị) trở thành “công dân hạng
hai” tức là nước đó phải “xin” các nước đã phê chuẩn trước cho gia nhập TPP – tức
gia nhập cái Hiệp định mà bản thân nước đó đã tham gia đàm phán và ký kết ngay
từ đầu. (Đây phải chăng sẽ là một cái “giá” của việc chậm chân trong phê chuẩn.
Nó tạo sức ép để các nước không nên lừng khừng trong việc phê chuẩn nếu đã quyết
là tham gia). Theo quy định này thì các nước phê chuẩn trước sẽ xem xét đơn “xin”
gia nhập TPP của nước phê chuẩn sau trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được đơn “xin
gia nhập” này. Sau khi các nước này OK thì TPP sẽ có hiệu lực đối với nước phê
chuẩn sau sau 30 ngày kể từ ngày nhận được trả lời “OK” của các nước phê chuẩn
trước.
Điều thứ ba mọi người cần biết, đó là riêng đối với Hoa kỳ thì kể cả khi
Quốc hội Hoa kỳ đã phê chuẩn và Quốc hội các nước đối tác đã phê chuẩn thì TPP
vẫn chưa mặc nhiên có hiệu lực giữa Hoa Kỳ và các nước đối tác. Theo luật pháp
của Hoa Kỳ thì sau khi Quốc hội Hoa kỳ phê chuẩn song thì Tổng thống Hoa kỳ phải
thực hiện thêm một bước nữa gọi là bước chứng thực (certification process),
nghĩa là Tổng thống Hoa Kỳ phải chứng thực là nước đối tác đã hoàn thành việc sửa
đổi luật pháp quốc gia cho tương thích với cam kết của Hiệp định và đã có bộ
máy, thiết chế để sẵn sang thực thi các cam kết một cách có hiệu lực và hiệu quả.
Chỉ sau khi Tổng thống Hoa kỳ hoàn thành bước chứng thực này thì TPP mới có hiệu
lực giữa Hoa Kỳ và từng nước đối tác mà Hoa Kỳ đã chứng thực. Với yêu cầu chứng thực này của Hoa Kỳ thì sẽ xảy ra kịch bản là tuy Quốc hội 12 nước đã phê chuẩn thì TPP không mặc nhiên có hiệu lực với cả 12 nước mà nó chỉ có hiệu lực đối với những nước mà Tổng thống Hoa kỳ (khi đó) chứng thực là luât pháp và thiết chế của nước đó đã tương thích với cam kết TPP. Nghe qua điều này có vẻ là khó chịu, nhưng nó sẽ loại trừ được tình huống "nói vậy mà không phải vậy" tức là sẽ cố gắng loại trừ được trường hợp một nước cam kết thì cam kết nhưng không thực hiện.
Điều thứ tư mọi người nên biết – điều này liên quan tới điều thứ ba bên
trên – đó là để Tổng thống Hoa kỳ có thể chứng thực là Việt Nam đã sẵn sàng để
tham gia TPP thì Việt Nam phải hoàn thành việc sửa đổi bố sung một số văn bản
pháp luật cho tương thích với cam kết TPP và sẵn sàng cho việc thực thi, trong
đó quan trọng nhất là việc sửa đổi pháp luật lao động và công đoàn. Theo bản Kế
hoạch song phương Việt Nam – Hoa Kỳ về lao động (tức bản phụ lục đi kèm Hiệp định
TPP) thì Việt Nam phải hoàn thành việc sửa đổi pháp luật lao động và công đoàn
và thành lập xong bộ máy, thiết chế về quan hệ lao động phù hợp với cam kết
TPP mà đã được cụ thể hóa trong bản Kế hoạch song phương Việt Nam – Hoa Kỳ trước khi TPP có hiệu lực đối với Việt Nam và Hoa Kỳ. Nghĩa là, chỉ
khi Việt Nam hoàn thành hai việc này thì Tổng thống Hoa Kỳ mới có đủ căn cứ để
chứng thực là Việt Nam đã sẵn sàng thực thi TPP. Sau bước chứng thực này thì
TPP mới có hiệu lực đối với Việt Nam và Hoa kỳ.
Điểu thứ năm mọi người nên hiểu, đó là sẽ không thể tồn tại phương án
TPP sẽ có hiệu lực giữa Việt Nam và các nước khác, trừ Hoa Kỳ, bởi vì có người
sẽ hỏi là nếu Tổng thống Hoa Kỳ không chứng thực Việt Nam đã sẵn sàng thực thi
TPP thì Việt Nam “quên” Hoa Kỳ đi và “chơi” TPP với những nước còn lại thôi! Điều
đó không thể xảy ra, vì như trên đã nói, nếu không có sự tham gia của Hoa Kỳ
hay Nhật bản thì sẽ không có TPP. Thế nên Việt Nam có thể “chơi” với các nước
khác ngoài Hoa Kỳ, nhưng đó sẽ không phải là TPP mà sẽ là một dạng thỏa thuận
hay hiệp định song phương với một cái tên khác, không phải TPP.
Tóm lại, toàn bộ phần giải thích trên có thể gói gọn lại một câu: nếu
Hoa Kỳ không phê chuẩn thì trên đời này sẽ không có TPP. Đây là điều giải thích
tại sao Quốc hội nhiều nước TPP đã “sẵn sàng phê chuẩn” nhưng lại chưa chính thức
phê chuẩn bởi họ không muốn phê chuẩn một hiệp định rồi để đấy. Cá nhân tôi
nghĩ rằng nếu Hoa Kỳ phê chuẩn thì các nước khác sẽ phê chuẩn rất nhanh, thậm
chí không cần phải đợi đến đầu 2018. Còn nếu Hoa Kỳ không (hoặc chưa) phê chuẩn
thì mọi thứ vẫn cứ “treo” đó. Đợi và đợi!
Hiều được toàn bộ câu chuyện TPP có hiệu lực như vậy thì bây giờ mọi người
mới hiểu hết ý nghĩa của việc tại sao Tổng thống Obama vẫn quyết tâm dành những
ngày cuối cùng của mình trên cương vị Tổng thống Hoa Kỳ để trình TPP ra Quốc Hội
Mỹ. Theo những gì mà chính quyền của Tổng thống Obama tuyên bố thì thời gian trình dự kiến diễn ra trong khoảng thời gian sau bầu cử Tổng thống
(8/11/2016) và trước khi Tổng thống Obama chính thức bàn giao chức Tổng thống
cho người kế nhiệm (ngày 20/1/2017). Mọi người hãy chờ xem điều kỳ diệu có xảy
ra trong khoảng thời gian hơn 70 ngày này không.
Nếu Quốc hội Hoa Kỳ không phê chuẩn TPP trong thời gian này thì có thể
TPP sẽ bị “treo” vô thời hạn, thậm chí “chết” hẳn nếu như ông Trump lên làm Tổng
thống như ông ta tuyên bố. Hãy chờ xem!
Mạnh Cường
Rất chi tiết và dễ hiểu. Cảm ơn anh Cường đã chia sẻ thông tin :)
Trả lờiXóaCám ơn Lâm, Cường mong là các bạn tìm thấy thông tin hữu ích cho mình trong bài viết
Xóacam ơn bài viết ạ. có thêm tư liệu làm tiểu luận rồi :d
XóaDạ cám ơn anh
Trả lờiXóaMuốn có thêm nhiều bài viết của anh...
Trả lờiXóavấn đề là Trump tuyên bố sẽ rút khỏi TPP. Nếu trường hợp này xảy ra thì điều 30.6 mới là chuyện phải bàn (chớ không phải là điều 30.5 như trong bài).
Trả lờiXóaĐiều 30.6 chỉ có thể áp dụng SAU KHI Hiệp định đã có hiệu lực, tức phải thực hiện xong Điều 30.5. Nước nào muốn áp dụng điều này cũng phải là Bên của Hiệp định đã có hiệu lực, tức nước đó phải phê chuẩn TPP xong đã. Hiện nay Mỹ chưa phê chuẩn và Hiệp định TPP chưa có hiệu lực thì làm sao mà áp dụng được điều 30.6
Xóatác giả viết: "nếu không có sự tham gia của Hoa Kỳ hay Nhật bản thì sẽ không có TPP"
Trả lờiXóaTheo tôi là không đúng. Vì theo điều 30.6.2, nếu một bên (thí dụ Mỹ) rút khỏi TPP, thì hiệp ước vẫn có hiệu lực với các nước còn lại.
Cũng như câu trả lời trên, điều 30.6 là áp dụng SAU KHI Hiệp định đã có hiệu lực. Nếu Mỹ đã phê chuẩn rồi, TPP đã có hiệu lực rồi thì Mỹ rút ra theo điều 30.6 thì TPP vẫn có hiệu lực với các nước còn lại. Còn ở thời điểm hiện tại phải làm sao cho TPP có hiệu lực đã. Mà muốn TPP có hiệu lực thì phải có sự tham gia của Mỹ và Nhật thì mới thỏa mãn yêu cầu của điều 30.5
XóaEm có một thắc mắc là tại sao lại lấy GDP của IMF 2013 mà không phải là 2015 ạ? Cảm ơn thầy bài viết
Trả lờiXóaViệc lấy số liệu GDP của năm 2013 vì số đó đã được chốt vào thời điểm đang đàm phán.
XóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaCháu chào bác ạ.
Trả lờiXóaCháu đã được đọc các bài biết về quan hệ lao động trong CPTPP trên blog của bác. Các bài viết đều rất chi tiết, dễ hiểu và hữu ích đối với cháu ạ.
Hiện tại cháu đang làm nghiên cứu khoa học về những quy định của CPTPP về quyền của người lao động- cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.
Cháu rất mong được đọc thêm nhiều bài viết của bác ạ.
Cháu xin chân thành cảm ơn.Cháu chào bác.